Chương 1: Lê Minh Khuê dòng chảy truyện ngắn Việt Nam sau 1986 Chương 2: Thế giới thực truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1986 Chương 3: Kết cấu, ngôn ngữ giọng điệu truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1986 N tiểu luận Truyện ngắn Lê Minh Khuê Ông đặc biệt trọng
Lê Minh Khuê ( 6 tháng 12 năm 1949) là nhà văn nữ Việt Nam chuyên viết truyện ngắn và truyện vừa về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Bà là cây bút nữ xuất sắc của thời đại trong văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
– le minh khue . Tham khảo: Đỗ Trọng Khơi – nhà thơ viết nằm không khuất phục trước tật nguyền đọc các tác phẩm của Lê minh khuê, người đọc như được nhìn thấy một bức tranh về cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của dân tộc. có những người không tiếc tuổi xuân xanh, thậm chí không màng tính
Các tác phẩm đoạt giải Hội Nhà văn Hà Nội năm nay, bao gồm tiểu thuyết Thành thị của nhà văn Nguyễn Việt Hà; và tuyển tập phê bình và tiểu luận về Hà Nội dưới góc nhìn văn học của nhà văn Việt Nam. Bạn Đang Xem: Lê minh khuê được mệnh danh là gì
đọc các tác phẩm của Lê minh khuê, người đọc như được nhìn thấy một bức tranh về cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của dân tộc. có những người không tiếc tuổi xuân xanh, thậm chí không màng tính mạng, chỉ một lòng hướng về quê hương thân yêu.
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Lê Minh Khuê thuộc thế hệ những nhà văn bắt đầu sáng tác trong thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Vậy để hiểu rõ hơn về cuộc đời cũng như sự nghiệp của nhà văn Lê Minh Khuê các bạn theo dõi bài viết dưới đây. Lê Minh Khuê tên khai sinh là Lê Thị Minh Khuê, sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949 tại quê ngoại Lan Châu, Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Quê nội của bà ở xã Hải An, Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Cả ông nội và ông ngoại bà đều là nhà nho, còn cha là thầy giáo dạy trung học. Cha mẹ mất sớm, nên bà lớn lên trong gia đình dì ruột đều là giáo viên trung học. Nhà văn Lê Minh Khuê thuộc thế hệ những nhà văn bắt đầu sáng tác trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Các tác phẩm của bà ra đời đầu những năm 70 của thế kỉ XX đều viết về cuộc sống chiến đấu máu lửa của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Từ sau năm 1975, sáng tác của bà đã thay đổi, bám sát những biến chuyển của đời sống, đến nhiều vấn đề bức xúc của xã hội thời kỳ đổi mới. Những sáng tác của bà miêu tả tâm lý khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lý phụ nữ. Thể loại mà bà thường hay viết là truyện ngắn và truyện vừa. Truyện của bà đã được dịch và xuất bản sang nhiều nước trên thế giới như ở Hoa Kỳ, Đức, Italia, Thụy Điển, Hàn Quốc. Chân dung nhà văn Lê Minh Khuê Bên cạnh việc viết văn, Lê Minh Khuê từng là phóng viên Đài Phát thanh Giải phóng đi B, về Đà Nẵng năm 1975 cùng đơn vị quân đội, phóng viên báo Tiền phong, phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam và là biên tập viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn từ 1978 đến khi nghỉ hưu. Các tác phẩm và giải thưởng của Nhà văn Lê Minh Khuê Tác phẩm chính của đã được xuất bản như Những ngôi sao xa xôi tập truyện, Nhà xuất bản Kim Đồng 1973, tái bản có bổ sung 2006 Cao điểm mùa hạ tập truyện, Nhà xuất bản Quân đội 1978 Đoạn kết tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1982 Một chiều xa thành phố tập truyện, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1986 Tôi đã không quên truyện vừa, Nhà xuất bản Công An 1991, tái bản tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004 Bi kịch nhỏ tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993 Lê Minh Khuê truyện ngắn tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1994 Trong làn gió heo may tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1999. Màu xanh man trá tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2003; Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2002; Một mình qua đường tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2006; Những ngôi sao, Trái đất, dòng sông tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2008 Nhiệt đới gió mùa tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012 The Stars, The Earth, The River tập truyện, Nhà xuất bản Cubstone Press, Mỹ, 1996 Monsunens sista regn tập truyện, Nhà xuất bản Tranan, Thụy Điển, 2008 Fragile come un raggio di sole tập truyện, Nhà xuất bản O barra O, Italia, 2010 Kleine Tragödien tập truyện, Nhà xuất bản Mitteldeutscher, Đức, 2011 Làn gió chảy qua tập truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2016. Giải thưởng bà đã đạt được như Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 tập truyện ngắn Một chiều xa thành phố Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 tập truyện ngắn Trong làn gió heo may Giải thưởng văn học mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc, năm 2008 Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012 Trên đây là các thông tin cơ bản về nhà văn Lê Minh Khuê, với những thông tin này bạn đã hiểu hơn về nữ nhà văn này rồi chứ. Hy vọng bài viết có thể sẽ giúp ích được cho các bạn. Chúc các bạn thành công.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi cụ thể Mở bài Văn học Cách mạng luôn chiếm một vai trò quan trọng không chỉ với nền văn học nước nhà mà còn có ý nghĩa lớn với văn hóa, lịch sử. Văn học kháng chiến chống Mỹ luôn là những bông hoa đẹp, nở mãi trong dòng chảy văn học Việt Nam. Những cô gái thanh niên xung phong, dưới ngòi bút đầy yêu thương của các tác giả, hiện lên vô cùng trong trẻo, đầy nữ tính nhưng cũng rất quả cảm, gan dạ. Trong đó, “Những ngôi sao xa xôi” được đánh giá là tác phẩm nổi bật nhất viết về những con người nhỏ bé ấy. Phân tích Những ngôi sao xa xôi, ta sẽ không chỉ thấy được hiện thực chiến tranh ác liệt mà còn cảm nhận được vẻ đẹp của con người trong hoàn cảnh khốc liệt, đau thương. Thân bài Luận điểm 1 Khái quát tác giả, tác phẩmLê Minh Khuê sinh năm 1949, quê huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Bà tham gia kháng chiến chống Mỹ và là một thanh niên xung phong nổi bật. Khoảng thời gian những năm 1970, bà bắt đầu sáng tác và cho ra đời nhiều tác phẩm đặc sắc. Bà sống, chiến đấu trong chiến trường Trường Sơn ác liệt như biết bao người chiến sĩ giả Lê Minh Khuê“Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm nổi bật nhất của Lê Minh Khuê, được sáng tác vào năm 1971. Đây là thời điểm cuộc chiến đấu của dân tộc đang diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt. Tác phẩm đã khắc họa lên hình tượng những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Họ đẹp và nổi bật lên giữa khói lửa với tinh thần dũng cảm, lạc quan yêu đời, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đặc biệt là không sợ hi sinh khi chiến đấu. Họ là những con người tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong thời kì kháng chiến chống Mỹ vô cùng oanh liệt của dân tộc. Luận điểm 2 Hoàn cảnh sống và chiến đấuTrước hết, Lê Minh Khuê đã gợi ra ấn tượng cho người đọc về hoàn cảnh sống và chiến đấu đặc biệt của các nhân vật. Ba nhân vật trong truyện là ba cô gái Thao, Phương Định và Nho. Công việc của họ là làm ở tổ trinh sát mặt đường. Họ sống và làm việc trên một cao điểm giữa vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung bom đạn nguy hiểm. Chính vì vậy, công việc hàng ngày vừa khó khăn, vừa có thể đối mặt với tử thần bất cứ lúc nào.“Đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay ầm ĩ xa dần. Thần kinh căng như dây chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ có thể bây giờ, có thể chốc nữa… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”. Đó là việc nguy hiểm phải chạy trên cao điểm cả ngày, phơi mình giữa vùng trọng điểm bắn phá của máy bay địch. Ngoài ra sau mỗi trận bom, họ còn phải đo khối lượng đất đá, đánh dấu bom chưa nổ, phá bom để tiếp tục công việc vào những ngày tiếp theo. Dưới ngòi bút của Lê Minh Khuê, công việc và hoàn cảnh sống của ba cô gái nhỏ bé ấy vô cùng hiểm nguy, trắc trở. Để có thể tồn tại và chiến đấu, đòi hỏi ở họ sự gan dạ, bình tĩnh, quả điểm 3 Nét đẹp của ba cô gáiMiêu tả chiến trường Trường Sơn gian khổ, Lê Minh Khuê không nhằm kể khổ, than vãn mà ngược lại, chính cái gian nan, hiểm nguy ấy đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của các cô gái. Họ đều là những cô gái thanh niên xung phong còn trẻ, phải xa nhà, xa mái trường để lên đường đi chiến đấu vì miền Nam ruột thịt. Sự quả quyết của họ cho thấy một lớp người trẻ dũng cảm, dám hi sinh cái ích kỉ của bản thân để sống và chiến đấu cho lí tưởng chung của dân tộc. Những cô thanh niên xung phong thời chống Mỹ cứu nước Ba cô gái nhỏ bé ấy đều hiện lên với những nét đẹp giống nhau. Họ có một phẩm chất cao đẹp, đó là tinh thần trách nhiệm cao với công việc, dám xông pha, không sợ cái chết. Đối mặt với thử thách, họ vô cùng dũng cảm, gan dạ, luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Ba cô gái ấy dám đối mặt với cái chết mà không nao núng dù nhiều lần họ bị bom vùi và làm bị thương, thậm chí đã có người hi sinh khi làm nhiệm chỉ thế, họ còn dành rất nhiều tình cảm cho nhau. Ở họ, tinh thần đồng đội được miêu tả rất rõ ràng. Họ luôn gắn bó, thân thiết, được Lê Minh Khuê đặc tả ở tính tình và sự quan tâm chăm sóc chu đáo khi đồng đội bị thương do bom đạn. Qua những nhân vật ấy, tác giả đã khắc họa lên vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong. Đó là những cô gái trẻ mơ mộng, dễ vui, dễ buồn nhưng cũng rất sâu lắng. Khói lửa chiến tranh không làm lu mờ đi nét nữ tính ở họ. Dù ở giữa chiến trường khói lửa, họ vẫn rất thích làm đẹp cho mình và cho cuộc sống. Ngoài ra, các cô gái nhỏ bé ấy còn vô cùng bình tĩnh, chủ động, lạc quan. Họ luôn nghĩ về tương lai sau này, khi đất nước hòa bình và bản thân sẽ tiếp tục theo đuổi những ước mơ riêng vẫn đau đáu trong tận sâu trái ra, Lê Minh Khuê còn khắc họa lên từng nhân vật với những vẻ đẹp rất riêng. Nho là cô em út, tính nết trẻ con, ngây thơ và lạc quan vô cùng. Cô bé có dáng người nhỏ bé, thích ăn kẹo, tính cách nhẹ nhàng nhưng khi đối mặt với hiểm nguy cũng bản lĩnh, cứng cỏi, không sợ bất cứ điều gì. Chị Thao, người chị cả, ngược lại lại có những vẻ trái ngược trong chính con người mình. Chị thích hát bài hát do Phương Định bịa ra nhưng lại không hát trôi chảy bài nào, chỉ nghêu ngao với một niềm vui nhỏ bé. Chị vừa dũng cảm táo bạo nhưng ngược lại lại sợ máu, sợ vắt. Ở chị có sự nhút nhát mềm yếu của cô gái và cũng có những nét bản lĩnh Định là nhân vật được Lê Minh Khuê miêu tả kĩ càng nhất. Cô là cô gái Hà Nội vào chiến trường 3 năm. Phương Định rất hay hoài niệm về quê hương, mẹ, mái trường, mang những nỗi nhớ thường trực trong tim… Đây là một cô gái hồn nhiên mơ mộng với nhiều nét tính cách thể hiện rất rõ ràng thích hát, thuộc nhiều bài hát, say sưa tận hưởng cơn mưa hồn nhiên như chưa hề nghe thấy tiếng bom đạn nổ. Cô hiện lên với vẻ đẹp trong sáng hồn nhiên, đáng yêu của cô gái tuổi đôi mươi nhiều ước vọng về cuộc Định còn là cô gái rất chu đáo, săn sóc, thể hiện ở cách cô chăm sóc chu đáo cho đồng đội cả ngày thường lẫn khi đồng đội bị thương. Cô còn là cô gái nhạy cảm, duyên dáng. Thế nhưng nhân vật này lại không biểu lộ tình cảm, tỏ ra kín đáo trước đám đông. Tiếp xúc với cô, người ta tưởng như kiêu kì nhưng bản thân cô lại tạo nên một sức hút tự nhiên, khiến mọi người đều yêu mến và chú ý. Qua ngòi bút của Lê Minh Khuê, Phương Định hiện lên rất đẹp, tượng trưng cho phẩm chất anh hùng của người Việt, đó là tinh thần trách nhiệm với công việc, gan dạ tự tin, thận trọng khi làm nhiệm vụ, đồng thời cũng luôn giữ trái tim yêu thương con người và yêu thương cuộc đời. Kết bài Bằng phương thức trần thuật thứ nhất, ngôn ngữ linh hoạt, giọng điệu nhịp nhàng theo từng mạch truyện cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý và tính cách đa dạng, tài tình, Lê Minh Khuê đã tạo nên một “Ngôi sao xa xôi” thành công và có ý nghĩa lớn đến tận thế hệ sau. Đọc “Những ngôi sao xa xôi”, hiện thực chiến tranh ác liệt như hiện ra trước mắt ta, mà ở đó, con người nổi bật lên khỏi khói đạn với vẻ đẹp của phẩm chất gan dạ, trái tim giàu yêu thương và niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Khép lại trang sách, những vần thơ về các cô thanh niên xung phong nhỏ bé ấy như vẫn còn ám ảnh mãi trong lòng người đọc“Đất nước mình nhân hậuCó nước trời xoa dịu vết thương đauEm nằm dưới đất sâuNhư khoảng trời đã nằm yên trong đấtĐêm đêm, tâm hồn em tỏa sángNhững vì sao ngời chói, lung linh…”>> Tham khảo thêm Phân tích bài Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê chuẩn văn mẫu
VOV5 - Giải thưởng Thành tựu văn học trọn đời” cho các tác phẩm của nhà văn Lê Minh Khuê vừa được Hội nhà văn Hà Nội quyết định trao tặng trong Giải thưởng năm 2019 của Hội". Nghe âm thanh bài viết tại đây Những tác phẩm đoạt giải Hội nhà văn Hà Nội năm nay, có tiểu thuyết Thị dân của nhà văn Nguyễn Việt Hà; và tập phê bình, tiểu luận Hà Nội từ góc nhìn văn chương của nhà văn Bùi Việt Thắng. Nhà văn Lê Minh Khuê giữa tại Lễ trao giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội. - Ảnh báo Kinh tế đô thị. Từ năm mười sáu tuổi, Lê Minh Khuê đã tham gia vào lực lượng Thanh niên xung phong, bám trụ trên những cung đường ác liệt. Có lẽ bởi vậy mà những tác phẩm đầu tiên của chị đã tập trung khắc họa hình ảnh người phụ nữ trong chiến tranh. Khi những năm tháng bom đạn qua đi, những hậu quả, nỗi đau của chiến tranh vẫn thường trở lại trong các trang viết của chị, bên cạnh những vấn đề của xã hội đương đại. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói “Lê Minh Khuê là một trong những cây bút sung sức, nổi bật của văn học Việt Nam, người đã từng có những tác phẩm không phải khuấy động dư luận, mà đã đặt ra những vấn đề buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống, nhìn vào quá khứ và hiện tại của đất nước, của dân tộc bằng một con mắt tỉnh táo hơn. Viết về cuộc sống hôm nay, nhưng đọc truyện của chị thấy nhiều điều khiến chúng ta không yên ổn được, rất bất an. Ngay cả những truyện chị giữ cho nhân vật không bị hoen ố, chống chọi được, như truyện Nước trong, như truyện Trên đường đê Nếu trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn, thì sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những biến chuyển của đời sống xã hội và con người trên tinh thấn đổi mới. Cổ điển, đằm thắm nhưng không phải vì thế mà kém phần sắc sảo, gai góc, Lê Minh Khuê đã trở thành một trong những cây bút nữ hàng đầu với sở trường truyện ngắn. Nhà văn Tạ Duy Anh nhận định, Lê Minh Khuê là một tay bút lão luyện, tay nghề cao khi khiến người đọc không nhận ra đâu là hư cấu và đời thật “Nhà văn, người cầm bút ở Việt Nam, hầu như tuổi thọ của việc cầm bút hầu như không được dài. Thường thường qua những tác phẩm ban đầu nổi tiếng, sau đó vì rất nhiều lý do, nhưng đa số cứ đuối dần. Nhưng riêng chị Lê Minh Khuê, càng đọc chị thì càng không biết đến bao giờ nhà văn này cạn vốn. Có cảm tưởng là chị còn rất nhiều. Cảm nhận thứ hai là sự lão luyện của một cây bút có một tay nghề rất cao. Nếu đọc một cách tinh tường thì sẽ nhận ra rằng chị đã vượt qua được tất cả những yếu tố hình thức, những cái cần phải trang trí bên bề ngoài để đi thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Vì thế không thể nhận ra được những điểm ghép giữa sự hư cấu và những chi tiết đời thật. Và tôi có cảm giác trong khi chúng tôi vẫn cố gắng đi tiểu thuyết hóa hiện thực, thì chị Lê Minh Khuê đã không cần phải làm việc ấy nữa. Bởi vì chị đã tự chắt lọc khi chị nạp những vốn đời sống vào trong thế giới tinh thần của chị” Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét Lê Minh Khuê đã thấu thị bản chất của chiến tranh, đi xuyên thấu cuộc chiến mà bi kịch để lại trong mỗi gia đình, mỗi con người - điều mà trước đây rất ít nhà văn đề cập tới “Tôi nghĩ đề tài lịch sử của Việt nam, một trong những cái quan trọng nhất là đề tài về cuộc chiến. Chính vì thế cuộc chiến tranh này bất cứ người cầm bút nào cũng phải cảm thấy đấy là một món nợ. Và tôi cho rằng chị Khuê đã xác định món nợ ấy từ khi chị đi thanh niên xung phong. 16 tuổi đã đi thanh niên xung phong rồi. Và chị xác định món nợ chị trả hết một đời. Chính vì thế tôi thấy chị vẫn còn rất nhiều nội lực tiếp theo để nói về vấn đề ấy, để viết về vấn đề ấy làm lay động người đọc. Khuê là một người đàn bà thấu thị, nhìn sự vật, chiến tranh bằng con mắt xuyên thấu. Và ở dưới đó âm ỉ một tấm lòng nồng nhiệt, giống như tro trấu - ở dưới rất nhiều lửa nhưng nó không cất lên một ngọn lửa mà cứ âm ỉ thôi. Và điều đó là thành công nhất của chị Khuê. Và yêu cầu một cách đọc mới.” Là tác giả của những tuyển tập như Những ngôi sao xa xôi, Cao điểm mùa hạ, Đoạn kết, Bi kịch nhỏ, Màu xanh man trá... và từng hai lần đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam với tập truyện Một chiều xa thành phố và Trong làn gió heo may, Lê Minh Khuê cũng là nhà văn đầu tiên đoạt giải thưởng mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc với tuyển tập "Những ngôi sao, trái đất, dòng sông" năm 2008. Hội đồng giải thưởng này đã nhận định về sáng tác của nữ nhà văn "Tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh đối với đất nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển đổi sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót và trang nghiêm”. Nhà văn Lê Minh Khuê chia sẻ “Tôi hay để ý những tình huống ghê gớm trong cuộc sống, để dẫn đến làm thế nào giải quyết một tâm thế của đời sống, làm cho người ta tha thứ nhau, rồi người ta sống hòa bình hơn, và người ta thương yêu nhau hơn. Đấy là ý của tôi.” Lê Minh Khuê đã khéo lựa chọn và đưa vào tác phẩm của mình những lát cắt sắc lẹm, tinh tế về cuộc sống hiện đại. Một cuộc sống dồn nén nhiều bức bối và nỗi đau. Những phận người đi qua tác phẩm của chị, đều để lại những vệt sáng trong tâm thức người đọc.
Giới thiệu tiểu sử của nhà văn Lê Minh Khuê, tại đây bạn cũng sẽ tìm thấy tài liệu tiểu sử sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Lê Minh viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Nói đến nền văn xuôi Việt Nam, chúng ta không thể nào quên được hình ảnh của nữ nhà văn Lê Minh Khuê, người đã làm khuynh đảo dòng suối văn chương đương thời. Bà là một nữ thanh niên xung phong vào chiến trường khi còn trẻ, nên bà đã viết rất nhiều tác phẩm nói về chiến tranh, những con người hi sinh thầm lặng trong thời kì ấy. Lê Minh Khuê không bao giờ để mình tụt lại phía sau mà luôn cố gắng bám sát thời đại để viết ra những tác phẩm tiêu biểu. Chúng ta cùng tìm hiểu về nữ nhà văn Lê Minh Khuê nhé. 1. Tiểu sử nhà văn Lê Minh Khuê Lê Minh Khuê sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949 tại quê ngoại Lan Châu, Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Quê nội bà ở phường Hải An, thị xã Nghi Sơn, Thanh Hóa. Ông nội và ông ngoại bà là nhà nho, cha là thầy giáo dạy trung học. Cha mẹ mất sớm, bà lớn lên trong gia đình dì ruột, chú và dì đều là giáo viên trung viết này được đăng tại [free tuts .net] Năm 1965, Lê Minh Khuê tham gia lực lượng Thanh niên xung phong chống Mỹ. Năm 1967 bà có những bài báo đầu tiên và năm 1969 bắt đầu viết văn. Đề tài chính của thời kỳ chiến tranh trong sáng tác của bà là đời sống cuộc chiến, máu lửa nhưng con người được tinh thần lạc quan liên kết, là cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. Truyện của bà thay đổi đề tài từ những năm 1984 vì theo bà, người Việt Nam thay đổi ngay từ năm 1975 khi hết chiến tranh, do đó không còn viết như cũ. Tác phẩm của nhà văn trong thời kì này bám sát những biến chuyển của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Lê Minh Khuê chuyên viết truyện ngắn và truyện vừa. Truyện của bà được dịch và xuất bản tại các nước Hoa Kỳ, Đức, Thụy Điển, Italya và Hàn Quốc. Bên cạnh việc viết văn, Lê Minh Khuê từng là phóng viên báo Tiền phong, phóng viên Đài Phát thanh Giải phóng đi B, về Đà Nẵng năm 1975 cùng đơn vị quân đội, phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam, biên tập viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn từ 1978 đến khi nghỉ hưu. Bà có tên trong Từ điển Tiểu sử Văn học Dictionary of Literary Biography phần Southeast Asian Writers các nhà văn Đông Nam Á cùng với 5 nhà văn Việt Nam. 2. Các giai đoạn sáng tác của nhà văn Lê Minh Khuê Trước năm 1975 Sống trong không khí chiến đấu kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà văn Lê Minh Khuê cũng hòa mình vào hoàn cảnh lúc bấy giờ. Chủ đề mà bà hay đề cập tới đó là những con người sống vì lí tưởng cao cả, sống vì mục đích chung của toàn thể dân tộc. Cũng trong giai đoạn này, nền văn xuôi của nước ta nổi bật theo khuynh hướng sử thi hào hùng và cảm hứng lãng mạn. Lê Minh Khuê cũng không nằm ngoài dòng chảy ấy. Trước năm 1975, những sáng tác của Lê Minh Khuê không chỉ gói gọn lại trong những nhân vật có công lao to lớn, không chỉ có hình ảnh những thanh niên, những con người trẻ tuổi và sức sống mãnh liệt. Mà bên cạnh đó, bà còn viết về em bé Chuyện nhỏ hồi chiến tranh và người mẹ trong tác phẩm Mẹ. Khái quát lại chúng ta thấy được những sáng tác của nhà văn Lê Minh Khuê trong thời kì này là gắn liền với hiện thực. Bà miêu tả một cách sinh động và chân thực của các nhân vật trong khung cảnh của chiến tranh tàn ác, khốc liệt. Thông qua đó, nhà văn thể hiện sự tự hào và đáng được tôn vinh. Sau năm 1975 Vào giai đoạn sau năm 1975, văn học nước ta đã có một sự thay đổi rõ rệt. Sự thay đổi này là một điều hiển nhiên, lúc này đất nước chúng ta bước vào giai đoạn hòa bình, thì bấy giờ văn chương cũng cần phải chú ý hơn về văn phong và đặc điểm nghệ thuật. Sau năm 1975, nhà văn Lê Minh Khuê cũng đã bắt kịp xu thế. Bà bắt đầu viết về sự đổi mới của đất nước, về con người và thế sự. Chiến tranh đã qua đi, nhưng những hậu quả và sang chấn của nó để lại thì vô cùng lớn. Trong những tác phẩm ở giai đoạn này của nhà văn Lê Minh Khuê, bà bắt đầu lên án sự ngự trị của đồng tiền. Trong thời kì hội nhập của đất nước, đã có quá nhiều con người bị tha hóa. Nhà văn đã thấy được điều ấy và bắt đầu phản ánh những điều như thế. Không chỉ vậy, bà còn viết về những nhân vật trong xã hội sống trong suy nghĩ chán chường, tiêu cực. Họ mệt mỏi nhưng vẫn bị lôi kéo vào vòng xoáy của cuộc đời. Qua tất cả những điều này chúng ta đã thấy được sự thay đổi lớn trong những tác phẩm của nhà văn Lê Minh Khuê. Bà đã bám sát vào thực tại và phản ánh một cách chân thực, bằng nhiều khía cạnh khác nhau. 3. Quan điểm nghệ thuật của Lê Minh Khuê Đối với quan niệm về trải nghiệm trong sáng tác, nhà văn Lê Minh Khuê cho rằng trải nghiệm không phải là tất cả, người viết không nhất thiết phải trải qua, phải chứng kiến những điều thực tại mới có thể viết được một tác phẩm. Bà đã nêu rằng “Vấn đề trải nghiệm không trở thành thiết yếu đối với người cầm bút.” Thật không sai khi nhà văn đã phát biểu như trên. Chúng ta không phủ nhận đi tầm quan trọng của việc trải nghiệm, nhưng để viết được một bài văn có tính hàm súc và ấn tượng thì chúng ta không hẳn phải trải nghiệm. Chúng ta không thể phải trải nghiệm qua thời kỳ chiến tranh mới viết được về thời kì chiến tranh. Lê Minh Khuê đã khẳng định “Không cớ gì chúng ta sinh ra ở thời kỳ chiến tranh chúng ta mới viết về chiến tranh, trong cuộc sống, đâu đó vẫn còn những số phận hậu chiến tranh trông chờ vào những cây bút. Vì thế, đừng nghĩ trải nghiệm là rào cản của sự sáng tạo.” Đối với Lê Minh Khuê, văn chương là một lĩnh vực không có một hình mẫu nhất định. Người viết văn hãy viết tràn ra những ngôn từ lên trên giấy, chứ không hẳn là phải theo bất cứ một khuôn phép nào. Theo bà, văn chương là một lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo rất lớn. Sự sáng tạo sẽ giúp cho người đọc như được hòa mình vào trong tác phẩm. Sự sáng tạo kì diệu có thể làm sống dậy các nhân vật trong tác phẩm đó. 4. Nhận định về nhà văn Lê Minh Khuê Lê Minh Khuê- một nhà văn được tôn vinh thành tựu trọn đời. Nhà văn Lê Minh Khuê tham gia vào thanh niên xung phong từ khi bà mới chỉ 16 tuổi. Trong thời gian cống hiến cho tổ quốc, bà ở trên chiến trường Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà ngòi bút của bà trong thời gian này chủ yếu là đề cập đến những cô gái trẻ, quên thân mình, xông pha vào chiến trận để giành lại hòa bình cho đất nước. Khi những năm tháng kháng chiến trôi qua, đất nước đã hòa bình thì bà bắt đầu viết về cuộc sống con người thực tại. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đã từng nhận xét rằng “Lê Minh Khuê là một trong những cây bút sung sức, nổi bật của văn học Việt Nam, người đã từng có những tác phẩm không phải khuấy động dư luận, mà đã đặt ra những vấn đề buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống, nhìn vào quá khứ và hiện tại của đất nước, của dân tộc bằng một con mắt tỉnh táo hơn. Viết về cuộc sống hôm nay, nhưng đọc truyện của chị thấy nhiều điều khiến chúng ta không yên ổn được, rất bất an. Ngay cả những truyện chị giữ cho nhân vật không bị hoen ố, chống chọi được, như truyện Nước trong, như truyện Trên đường đê”. Với một nhà văn tài hoa như Lê Minh Khuê, bà luôn biết cách đổi mới và sáng tạo trong các tác phẩm nghệ thuật của mình. Bà thay đổi cách viết một cách linh hoạt qua từng thời kỳ của đất nước. Bà có một vốn sống lớn, dựa vào đó bà đã viết ra được một khối lượng khổng lồ các tác phẩm. Cảm hứng trong bà luôn luôn dào dạt. Trong các nhà văn ở Việt Nam, đâu đó chúng ta sẽ bắt gặp những người ngày càng đuối dần trong ý tưởng và sự sáng tạo. Nhưng đối với Lê Minh Khuê thì điều đó không xảy ra. Không chỉ thành công trong nền văn học nước nhà, mà nhà văn Lê Minh Khuê cũng đã nhận được những lời khen từ nền văn chương nước ngoài. Hội đồng của giải thưởng mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc đã nhận định về tác phẩm của nữ nhà văn Lê Minh Khuê như sau “Tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh đối với đất nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển đổi sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót và trang nghiêm”. Qua những nhận định trên, chúng ta có thể thấy được tài năng của bà. Sự ngưỡng mộ của những bạn đồng nghiệp đối với những sáng tác, những ý tưởng và sự sáng tạo dồi dào của nhà văn Lê Minh Khuê. 5. Giọng văn của tác giả Lê Minh Khuê Khi bạn đọc một tác phẩm của nhà văn Lê Minh Khuê, bên trong sự gai góc khốc liệt, lại bộc lộ lên được sự nhẹ nhàng và đầy nữ tính. Nó chứa đựng tâm hồn bay bỗng của tác giả. Bà đã sử dụng giọng văn giản dị và ấm áp để thổi cho cái hồn của tác phẩm được sinh động hơn. Sử dụng lối viết như vậy, bạn đọc đã thấy được nỗi niềm của một người phụ nữ khi đứng trước chiến tranh, sự day dứt và khắc khoải trước hoàn cảnh của thực tại chứ không hề khô cứng. Những câu chuyện, con người xuất hiện trong các tác phẩm của bà là những điều bình dị nhưng thật đẹp đẽ. 6. Những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Lê Minh Khuê Những ngôi sao xa xôi tập truyện, Nhà xuất bản Kim Đồng 1973, tái bản có bổ sung 2006 Cao điểm mùa hạ tập truyện, Nhà xuất bản Quân đội 1978 Đoạn kết tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1982 Một chiều xa thành phố tập truyện, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1986 Tôi đã không quên truyện vừa, Nhà xuất bản Công An 1991, tái bản tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004 Bi kịch nhỏ tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993 Lê Minh Khuê truyện ngắn tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1994 Trong làn gió heo may tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1999. Màu xanh man trá tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2003; Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2002; Một mình qua đường tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2006; Những ngôi sao, Trái đất, dòng sông tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2008 Nhiệt đới gió mùa tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012 The Stars, The Earth, The River tập truyện, Nhà xuất bản Cubstone Press, Mỹ, 1996 Monsunens sista regn tập truyện, Nhà xuất bản Tranan, Thụy Điển, 2008 Fragile come un raggio di sole tập truyện, Nhà xuất bản O barra O, Italia, 2010 Kleine Tragödien tập truyện, Nhà xuất bản Mitteldeutscher, Đức, 2011 Làn gió chảy qua tập truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2016. 6. Những giải thưởng lớn của nhà văn Lê Minh Khuê Nhà văn Lê Minh Khuê là một nhà văn tài hoa trong nền văn xuôi. Sự sáng tạo và cảm hứng trong bà đã tạo nên những tác phẩm lớn. Để vinh danh cho những điều tuyệt vời mà bà đã xây dựng. Nhà nước đã trao tặng cho bà các giải thưởng sau Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 tập truyện ngắn Một chiều xa thành phố. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 tập truyện ngắn Trong làn gió heo may. Giải thưởng văn học mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc, năm 2008 Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012 Lời kết Chúng ta vừa được tìm hiểu về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Lê Minh Khuê. Mình chắc rằng đây là tài liệu bổ ích giúp các bạn có thêm kiến thức về các tác giả văn học Việt Nam.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 CAO THỊ THU HIỀN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ Chuyên ngành LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG HÀ NỘI, 2014 LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Đoàn Đức Phƣơng – Trƣởng Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ngƣời thầy đã tận tâm hƣớng dẫn em hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô giáo Phòng sau Đại học – Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã quan tâm giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Sau cùng, tôi xin chia sẻ thành công nhỏ bé của mình với bạn bè, đồng nghiệp cùng gia đình – những ngƣời đã luôn cùng tôi, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình! Đông Anh, ngày tháng năm 2014 Ngƣời thực hiện Cao Thị Thu Hiền LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Cao Thị Thu Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 3 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu................................................. 6 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6 5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 7 6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7 Chƣơng 1. KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ ................................................................................................... 8 Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật............................................................. 8 Sáng tác của Lê Minh Khuê ................................................................. 11 Hành trình sáng tác ......................................................................... 11 Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê ..................................... 14 Khái niệm ............................................................................................... 14 Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về hiện thực cuộc sống ................................................................................................................... 15 Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về con nguời ........... 17 Chƣơng 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ ................................................................................................................... 21 Những bức tranh cuộc sống .................................................................. 21 Những vấn đề của thời chiến .......................................................... 21 Những vấn đề của thời hậu chiến ................................................... 23 Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ............................ 27 Khái niệm nhân vật và phân loại nhân vật ..................................... 27 Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ..................... 29 Nhân vật lý tƣởng ................................................................................ 31 Nhân vật tự ý thức ............................................................................... 38 Nhân vật tha hóa................................................................................... 41 Nhân vật cô đơn ................................................................................... 46 Nhân vật bi kịch ................................................................................... 48 Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN .............................................................. 54 Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 54 Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................... 54 Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê ......... 54 Đối thoại ................................................................................................. 54 Độc thoại nội tâm ................................................................................. 59 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện............................................................... 64 Khái niệm cốt truyện ...................................................................... 64 Các kiểu tổ chức cốt truyện ............................................................ 66 Cốt truyện lồng ghép ........................................................................... 66 Cốt truyện giản lƣợc ............................................................................ 69 Cốt truyện sự kiện - tâm lý ................................................................ 73 Diễn trình cốt truyện ...................................................................... 76 Phƣơng thức trần thuật.......................................................................... 85 Ngƣời trần thuật ............................................................................. 87 Trần thuật theo ngôi thứ ba ............................................................... 87 Trần thuật theo ngôi thứ nhất ............................................................ 90 Sự luân phiên các ngôi kể .................................................................. 94 Cách trần thuật ............................................................................... 96 Giọng điệu trần thuật .......................................................................... 96 Nhịp điệu trần thuật ........................................................................... 105 Cách kể, tả ........................................................................................... 110 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 116 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới nghệ thuật là một trong những phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại. Chính vì vậy, nghiên cứu thế giới nghệ thuật là nghiên cứu văn học ở góc độ thi pháp, tránh đƣợc những cách tiếp cận không phù hợp tác phẩm văn học cả về nội dung và hình thức. Bởi vậy, thế giới nghệ thuật không chỉ là chỉnh thể của hình thức cụ thể, trực quan, cảm tính mà là hình thức mang tính quan niệm về thế giới và con ngƣời của nhà văn. Văn học Việt Nam sau năm 1975 thực sự có nhiều khởi sắc. Những đóng góp cả về phƣơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học giai đoạn này đã khẳng định những bƣớc chuyển mạnh mẽ của văn học nƣớc nhà. Việc xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ đã tạo nên sự phong phú, đa dạng cho văn xuôi giai đoạn này nhƣ Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê… đặc biệt là với thể loại truyện ngắn. Trong số rất nhiều tác phẩm truyện ngắn, Lê Minh Khuê đƣợc đánh giá là “một cây bút truyện ngắn sung sức”, có quá trình và có nhiều tìm tòi, đổi mới nghệ thuật. Với hơn 40 năm sáng tác, Lê Minh Khuê là một trong số không nhiều tác giả chuyên tâm viết truyện ngắn và thực sự có nhiều duyên nợ với thể loại này. Bắt đầu cầm bút từ những năm cuối thập niên 60, thế kỷ XX, và viết khỏe cho đến tận hôm nay, sáng tác của Lê Minh Khuê vắt ngang qua hai thời kỳ văn học, trƣớc và sau 1975. Mỗi tập truyện ngắn của chị ra đời đều đánh dấu những đổi mới quan trọng trong từng chặng đƣờng sáng tác. Ở chặng đƣờng nào, Lê Minh Khuê cũng để lại dấu ấn riêng, đậm chất nữ tính trong cách, cách nghĩ và đặc biệt trong những thể nghiệm tìm tòi, đổi mới hình thức nghệ thuật. Trên hành trình sáng tác của mình, tuy có những lúc khó khăn và vấp váp song Lê Minh Khuê cũng gặt hái đƣợc khá nhiều thành công. Bà 2 giành giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam với tập Một chiều xa thành phố năm 1987 và tập Trong làn gió heo may năm 2000. Năm 1994, bà giành giải thƣởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội với tập Bi kịch nhỏ. Điều đó chứng tỏ giới nghiên cứu và bạn đọc trong nƣớc đã có những đánh giá, ghi nhận xứng đáng với lao động nghệ thuật của Lê Minh Khuê. Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn tiêu biểu của Lê Minh Khuê đã đến với bạn đọc thế giới. Tập truyện Những ngôi sao, trái đất, dòng sông đƣợc giải thƣởng liên hoan thƣờng niên mang tên văn hào Byeong – ju Lee của Hàn Quốc 2008. Trong thông báo gửi tới Hội nhà văn Hà Nội, Hội đồng giải thƣởng nhận định “Là một nhà văn nữ hàng đầu, Lê Minh Khuê ban đầu được biết đến bằng những tác phẩm viết về các cô gái tham gia cuộc chiến tranh giữ nước, tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót, trang nghiêm”. Cuốn sách này cũng đã đƣợc nhà xuất bản Curbstone Press Mỹ phát hành. Nó trở thành “…cuốn sách đầu tiên trong chùm những tác phẩm “Tiếng nói từ Việt Nam”…” đem những hình ảnh về đời sống hiện thực và thế giới tâm hồn con ngƣời Việt Nam đến gần hơn với bạn bè năm châu, đặc biệt là ở nƣớc Mỹ. Hơn thế, tác giả Rochelle của báo The Pilot còn khẳng định “Đây là những truyện nên được dạy trong những giờ văn học và lịch sử trên toàn nước Mỹ, cả ở trường trung học phổ thông lẫn đại học”; bởi tác giả “đã cho độc giả một cái nhìn sâu sắc và trung thực hiếm hoi về Việt Nam” Báo The Colombus Dispatch. Nhƣ vậy, tuy không phải cây bút mở đƣờng cho văn học thời kỳ đổi mới nhƣ Nguyễn Minh Châu hay một hiện tƣợng văn học gây nhiều tranh cãi nhƣ Nguyễn Huy Thiệp nhƣng Lê Minh 3 Khuê thực sự là một tác giả truyện ngắn nữ có quá trình, có nội lực, sức bền và có triển vọng “có thể đi xa”. Với đề tài này, ngƣời viết có cơ hội hiểu thêm về thế giới nghệ thuật của một nhà văn đƣơng đại. Từ đó, chúng ta có thể hình dung những vấn đề về sự vận động thể loại truyện ngắn trƣớc và sau năm 1975, có cái nhìn khái quát về truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Khóa luận góp thêm cơ sở vững chắc hơn đối với việc đánh giá tài năng, phong cách nghệ thuật và vị trí văn học của nhà văn Lê Minh Khuê trong nền văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện đề tài, ngƣời viết đƣợc củng cố bổ sung những kiến thức lịch sử văn học phục vụ cho công tác giảng dạy. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê. 2. Lịch sử vấn đề Lê Minh Khuê tỏ rõ là một cây bút truyện ngắn có nội lực, sức bền và để lại ấn tƣợng khá đậm trong lòng độc giả với nhiều truyện ngắn đã ra mắt, đặc biệt là tập truyện Bi kịch nhỏ, dƣ luận đã có rất nhiều những ý kiến đánh giá trái chiều, khen chê đều mạnh mẽ. Dƣới đây là tóm lƣợc những ý kiến khác nhau của các tác giả - những nhà nghiên cứu, phê bình văn học – về truyện ngắn Lê Minh Khuê đƣợc đăng trên các báo và tạp chí nhà chúng tôi đã sƣu tầm đƣợc. Ngay khi tập truyện ngắn thứ ba trong đời văn Lê Minh Khuê, Một chiều xa thành phố, ra đời, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã nhận diện đƣợc những điểm tiêu biểu trong văn phong của bà “Văn của Lê Minh Khuê, ngay từ đầu đã có một vẻ gì đó “hoang dã”, phải nói ngay là kiểu viết như thế này lộ rất rõ chất văn của chị” và “Đọc văn Lê Minh Khuê, chúng ta thấy khi viết dường như chị tựa hẳn vào những ấn tượng, cảm giác. Những ấn tượng này là mơ hồ, nhiều khi khó hiểu, cứ bảng lảng thành thử câu văn gợi 4 nhiều những liên tưởng. Lối viết này là do cách cảm nhận đời sống bằng trực giác” [92, Trong bài viết “Lê Minh Khuê, một bản lĩnh truyện ngắn”, tác giả Bùi Việt Sỹ đã viết “Có không ít tác giả, sau một vài truyện ngắn thành công ban đầu đã từ biệt thể loại này để quay sang viết tiểu thuyết. Phải, tiểu thuyết, những tập sách “có gáy” dường như dễ làm người viết nổi tiếng hơn? Nhưng với Lê Minh Khuê, từ lúc cầm bút đến nay, đã ngoài 20 năm, chị vẫn chung thủy với truyện ngắn” [89]. Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh khẳng định những truyện ngắn đầu tay của Lê Minh Khuê “đã hình thành một dáng vẻ riêng” và “Lê Minh Khuê là một cây bút nữ có nhiều đóng góp về truyện ngắn. Từ hồn nhiên, trong trẻo đến sắc sảo nghiêm ngặt, chị luôn có một chất giọng riêng. Chị đi vào một số mặt trong cuộc sống, chú ý nhiều đến đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái … Việc đối mới bút pháp những năm gần đây là dấu hiệu đáng mừng. Lê Minh Khuê là một cây bút nữ tài năng và đang rất sung sức” [26]. Bên cạnh những ý kiến khen ngợi, đồng cảm, truyện ngắn Lê Minh Khuê, mà cụ thể là tập Bi kịch nhỏ cũng nhận không ít những ý kiến trái chiều về mặt chính trị quan điểm, đƣờng lối, tƣ tƣởng. Năm 1993, khi tập truyện ngắn Bi kịch nhỏ ra đời, ngay lập tức đã thu hút nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến trái chiều khen có, chê có. Nhóm những ngƣời phê phán, thậm chí phản đối dữ dội tác phẩm này cho rằng “Dụng ý bôi đen, bóp méo sự thật của tác giả thật rõ ràng” [80]; “Với truyện này, tác giả viết ra từ lòng u uất, chất chứa những cay đắng bất bình, chủ quan, một chiều, chỉ thấy màu xám, cái u tối, không hề cho người đọc thấy được một mảng sáng nào dù le lói ở cuối đường”, “một vài hình ảnh bộ đội, công an, nhất là tầng lớp trí thức … tôi cho rằng tác giả cường điệu, bóp méo” [91]; tác phẩm “bôi 5 nhem con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam với lối miêu tả, so sánh vừa tinh vi vừa trắng trợn”, “tô đậm lẽ sống chạy theo đồng tiền” [99] Bên cạnh những ý kiến phê phán, nhiều tác giả khác có cái nhìn khách quan, công tâm hơn với Bi kịch nhỏ. Bùi Việt Sỹ xem Bi kịch nhỏ là tập truyện đã “gây ấn tượng mạnh”; trong đó “chín truyện ngắn, chín truyện khác nhau nhưng mang một nỗi buồn nghẹn ngào của tác giả trước nỗi đau của thân phận con người”. Hồ Anh Thái cho rằng “Đến tận lúc ý thức được cái ác mà kẻ ác vẫn tiếp tục làm điều ác, vậy thì nó đáng bị truy đuổi tận cùng, và thái độ không khoan nhượng của tác giả nhận được sự đồng tình của người đọc”. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên tỏ ra đồng tình với cách thể hiện của Lê Minh Khuê trong Bi kịch nhỏ với quan niệm “quá khứ phải nhìn thẳng vào nó để nó không còn cơ hội lặp lại theo chiều hướng xấu, chiều hướng ác…” và Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê là một cố gắng của bà, của thể loại truyện ngắn và của văn học hôm nay đi tìm lại lịch sử qua thân phận con ngƣời. Qua những ý kiến và đánh giá nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy ở một số chừng mực nào đó, những bình luận này chỉ dừng lại ở những khía cạnh nội dung, tƣ tƣởng mà chƣa đi sâu vào vấn đề nghệ thuật. Nhà văn Hồ Anh Thái cho rằng “Lê Minh Khuê không chỉ quan tâm đến hiện thực mà chị phản ánh, chị quan tâm nhiều hơn đến cách trình bày hiện thực đó. Chị rất có ý thức nói bằng giọng của mình – tiết chế, đôi khi chủng chẳng khô khan, nhưng đầy hàm ý. Chị rất chú trọng cái nhìn hiện thực của mình – điềm tĩnh, cuộc sống diễn ra trước mắt như một cuốn phim đang xem trong rạp” [90]. Chính bởi lẽ đó, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi muốn dành nhiều thời lƣợng cho các vấn đề có liên quan tới thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê. 6 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Luận văn hƣớng tới mục đích tìm ra đƣợc những điểm mới, những sáng tạo và đóng góp của Lê Minh Khuê trong dòng chảy truyện ngắn, từ đó khẳng định vị trí và vai trò của Lê Minh Khuê đối với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. - Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê bức tranh cuộc sống, thế giới nhân vật, các phƣơng diện nghệ thuật đặc sắc. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê qua từng chặng sáng tác, đƣợc tập hợp trong các tập + Cao điểm mùa hạ - NXB Quân đội nhân dân, 1978 + Đoạn kết – NXB Phụ nữ, 1981 + Một chiều xa thành phố - NXB Tác phẩm mới, 1986 + Bi kịch nhỏ - NXB Hội nhà văn, 1993 + Trong làn gió heo may – NXB Văn học, 1999 + Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa – Truyện ngắn chọn lọc – NXB Phụ nữ, 2002 + Màu xanh man trá – NXB Phụ nữ, 2005 + Một mình qua đường – NXB Hội nhà văn, 2006 + Nhiệt đới gió mùa – NXB Hội nhà văn, 2012 + Lê Minh Khuê – Truyện ngắn chọn lọc – NXB Thanh niên, 2013 Ngoài ra, chúng tôi khảo sát một số truyện ngắn và tiểu thuyết của Lê Minh Khuê đăng rải rác trên các báo và tạp chí. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phƣơng pháp sau 7 - Phương pháp tiếp cận thi pháp học Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng để tìm hiểu sánh tác của Lê Minh Khuê dƣới góc độ thi pháp nhằm làm rõ đặc trƣng thể loại của tác phẩm. - Phương pháp tiểu sử Chúng tôi tìm hiểu tiểu sử nhà văn Lê Minh Khuê để phục vụ cho việc đi sâu vào tác phẩm của bà. - Phương pháp so sánh Chúng tôi so sánh truyện ngắn của Lê Minh Khuê với các nhà văn khác để thấy đƣợc điểm khác biệt và đặc trƣng trong sáng tác của Lê Minh Khuê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp Phƣơng pháp này vừa đi sâu nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê, vừa hệ thống, tổng hợp các kết quả để minh chứng cho các luận điểm của luận văn. - Phương pháp thống kê Phƣơng pháp này giúp phân loại các đặc điểm nổi bật về nội dung, các kiểu dạng nhân vật và các phƣơng thức nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thƣ mục tham khảo, nội dung của luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng Chƣơng 1 Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật và sáng tác của Lê Minh Khuê Chƣơng 2 Cuộc sống và con ngƣời trong truyện ngắn Lê Minh Khuê Chƣơng 3 Phƣơng thức biểu hiện 6. Đóng góp của luận văn Luận văn nhằm làm rõ những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, từ đó khẳng định tài năng, vị trí và những đóng góp của Lê Minh Khuê trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. 8 Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật Những năm trƣớc 1970, sáng tác của nhà văn thƣờng đƣợc nhìn nhận nhƣ một tập hợp đơn giản của các bộ phận, các mảng rời. Thực tế, các tác phẩm của nhà văn tạo thành một thể thống nhất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ nhƣ một sinh thể. Những năm 70 của thế kỷ XX, ở Nga xuất hiện khái niệm thế giới nghệ thuật qua các công trình nghiên cứu văn học. Khái niệm này xuất hiện từ yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm văn học trong dạng chỉnh thể. Thế giới nghệ thuật đƣợc tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Từ xƣa, ngƣời Trung Quốc đã gọi tác phẩm thơ là “một cõi ý”. Nhà văn Seđrin lại nói “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Nhƣ vậy, một tác phẩm toàn vẹn phải xuất hiện nhƣ một thế giới nghệ thuật. Bielinxki cũng đã nhận xét “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo quy luật của nó”. Những nhận xét trên cho thấy Mọi thế giới nghệ thuật là tổng thể có quy luật riêng, có tính độc lập nội tại, phân biệt với các thế giới khác và có ý nghĩa riêng của nó. Ở Việt Nam, năm 1997, các tác giả cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học”, đã định nghĩa Thế giới nghệ thuật là “Khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng, được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù là nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, 9 thang bậc giá trị riêng… chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật” [25, hạn trong thế giới truyện cổ tích, con ngƣời và loài vật, cây cối, thần Phật đều nói chung một thứ tiếng ngƣời, đôi hài có thể đi một bƣớc vài dặm, nồi cơm vô tận ăn mãi không hết trong truyện Thạch Sanh… Trong văn học lãng mạn, quan hệ nhân vật thƣờng xây dựng trên cơ sở cảm hóa; trong văn học cách mạng, nhân vật thƣờng chia thành hai tuyến địch – ta, ngƣời chiến sĩ cách mạng và quần chúng. Nhƣ thế, mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới. Sự hiện diện của thế giới nghệ thuật không cho phép đánh giá và lý giải tác phẩm theo lối đối chiếu giản đơn giữa các yếu tố hình tƣợng với các sự thực đời sống riêng lẻ, xem có “giống” hay không, “thật” hay không, mà phải đánh giá trong chỉnh thể của tác phẩm, xem xét tính chân thật của tư tưởng chỉnh thể của tác phẩm so với chỉnh thể hiện thực. Các yếu tố của hình tƣợng chỉ có ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của nó. Mỗi thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới. Trong thần thoại, thế giới nghệ thuật gắn với quan niệm về các sự vật có thể biến hóa lẫn nhau. Trong truyện cổ tích, đặc biệt là cổ tích thần kỳ, nó gắn với quan niệm về thế giới không có sức cản. Thế giới nghệ thuật của sáng tác hiện thực chủ nghĩa gắn với quan niệm tác động tƣơng hỗ giữa tính cách và hoàn cảnh… Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ. Trong cuốn Thơ tình Việt Nam 1975 – 1990 1998, Lê Lƣu Oanh đã chi tiết hóa khái niệm này qua hình tƣợng cái tôi trữ tình. Tác giả viết “Gọi cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật bởi thế giới nội cảm này là một thể thống nhất có ngôn ngữ và quy luật riêng phụ thuộc vào lịch sử cá nhân, thời 10 đại… Đi sâu vào thế giới nghệ thuật được coi như một kênh giao tiếp với những mã số, ký hiệu, giọng nói, chương trình riêng, cần có thao tác phù hợp… Thế giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình là một thế giới mang giá trị thẩm mỹ”. Năm 1985, trong luận án Tiến sĩ khoa học Sự hình thành và những vấn đề của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Nghĩa Trọng đã xác định hàm nghĩa khái niệm thế giới nghệ thuật nhƣ sau “Thế giới nghệ thuật là một phạm trù mỹ học bao gồm tất cả các yếu tố của quá trình sáng tạo nghệ thuật và tất cả kết quả của quá trình hoạt động nghệ thuật của nhà văn. Nó là một chỉnh thể nghệ thuật và một giá trị thẩm mỹ. Thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực - đối tượng khách quan của nhận thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn hay chủ thể nhận thức nghệ thuật, ngôn ngữ hay chất liệu nghệ thuật. Trong thế giới nghệ thuật chứa đựng sự phản ánh hiện thực, tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Thế giới nghệ thuật không chỉ tương đương đối với tác phẩm nghệ thuật mà còn rộng hơn bản thân nó. Nó có thể bao gồm tất cả các tác phẩm nghệ thuật của một nhà văn, một trào lưu nghệ thuật, một thời kỳ nhất định của văn học, một nền văn học của dân tộc hay nhiều dân tộc nhưng đồng thời cũng có thể liên quan đến nhiều yếu tố khác của sáng tạo nghệ thuật nhỏ hơn khái niệm hình tượng nghệ thuật”. Thế giới nghệ thuật của một nhà văn mang đậm dấu ấn chủ quan của ngƣời sáng tạo. Xét đến cùng, thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là thế giới hình tƣợng hiện ra nhƣ một chỉnh thể sống động, chứa đựng một quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ nào đó, đƣợc xây dựng bằng vật liệu ngôn từ. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng “Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiểu theo đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là một chỉnh thể tất phải có cấu trúc 11 nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [62, Luận văn hiểu khái niệm thế giới nghệ thuật ở góc độ tất cả các yếu tố cấu tạo nên tác phẩm nhƣ nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật… Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê muôn màu và đa sắc, chính điều này tạo nên những giá trị trong tác phẩm của nhà văn. Sáng tác của Lê Minh Khuê Hành trình sáng tác Lê Minh Khuê sinh ngày quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. tLê Minh Khuê tham gia chiến tranh chống Mỹ từ 1965 đến 1969. Từ 1969 đến 1975, nhà văn là phóng viên chiến trƣờng. Từ 1975 đến 2005, bà là biên tập viên tại Nhà xuất bản Hội nhà văn. Lê Minh Khuê bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Trong những năm chiến tranh, truyện của bà viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đƣờng Trƣờng Sơn. Nơi bắt đầu của những bức tranh là truyện ngắn đầu tay với bút danh Vũ Thị Miền, in trên báo Văn nghệ 1971 đã cho thấy một cây bút khá chuyên nghiệp. Hàng loạt những tác phẩm về đề tài chủ nghĩa anh hùng cách mạng sau đó nhƣ Cao điểm mùa hạ, Con sáo nhỏ của tôi, Bạn bè tôi, Mẹ, Tình yêu người lính… thể hiện sự phong phú trong sáng tác của một cây bút trẻ nhiều triển vọng. Một trong những truyện ngắn tiêu biểu đầu tiên của Lê Minh Khuê là Những ngôi sao xa xôi viết năm 1971 với hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ hy sinh nhƣng rất hồn nhiên, lạc quan. Họ “thích ngồi bó gối mơ màng “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh…”. Lúc phá bom, họ kiên gan đến đáng sợ “Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào 12 quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào ra thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm”. Bƣớc vào làng văn với truyện ngắn đầu tay, Lê Minh Khuê đã mang đến một sự “trong trẻo, lãng mạn, đậm đặc không khí tuổi xuân ra trận”. Nhà văn tâm sự về tác phẩm này nhƣ sau “Ngày đó tôi là phóng viên báo Tiền Phong, đã từng đi đến rất nhiều các chiến trường để viết báo. Năm 1971, tôi cùng một binh chủng làm đường đến đèo Côlanhíp và đã ở lại một đêm trong hang đá cùng một tiểu đội công binh. Họ cũng là những người trẻ, hầu hết là học sinh trung học, những sinh viên… đi tham gia kháng chiến. Sống cùng nhau, cùng tuổi, cùng lý tưởng như nhau trong một hoàn cảnh vô cùng ác liệt nên dễ dàng hiểu và chia sẻ cho nhau. Trong tâm hồn những cô gái thanh niên xung phong, quê nhà bao giờ cũng hiện lên kỳ diệu. Và bởi vẻ đẹp kỳ diệu đó mà họ sẵn sàng hy sinh. Đó cũng chính là ý tưởng lớn nhất mà tôi muốn gửi gắm qua truyện ngắn này”. Đề tài chung trong sáng tác của nhà văn giai đoạn này là cuộc kháng chiến gian lao mà vĩ đại của toàn dân tộc với âm hƣởng ngợi ca hào hùng. Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những biến chuyển của đời sống xã hội và con ngƣời trên tinh thần đổi mới. Nhà văn đề cập đến những vấn đề nóng hổi của hiện thực đời sống đang diễn ra, những băng hoại về đạo đức, những đƣợc mất ở đời, những trăn trở của con ngƣời hôm nay… Lê Minh Khuê băn khoăn, day dứt trƣớc cuộc sống của những con ngƣời đang ngày càng tha hóa. Cái ác, cái phi nhân tính dƣờng nhƣ đang lấn lƣớt. Trong những tác phẩm nhƣ Anh lính Tony D, Cơn mưa cuối mùa, Bi kịch nhỏ, Cuộc chơi, Đồng đô la vĩ đại…, ngƣời ta nhìn thấy sự cảnh báo gay gắt về sự suy thoái tinh thần trong xã hội, thấy những số phận con ngƣời luẩn quẩn làm nô lệ cho dục vọng của mình… Đằng sau đó là bao hy vọng của nhà văn về việc đánh thức những gì tốt đẹp, những giá trị nhân bản trong mỗi con ngƣời 13 và một trái tim tha thiết niềm tin vào những giá trị gọi là thuần phong mĩ tục tốt đẹp của dân tộc. Không chỉ mạnh dạn trong việc tiếp cận những góc khuất của đời sống, Lê Minh Khuê cũng không ngừng nỗ lực đổi mới cách thể hiện nhƣ việc lựa chọn chi tiết, cách diễn đạt, ngôn ngữ, giọng điệu mang dấu ấn riêng của nhà văn. Sự tìm tòi, đổi mới bút pháp của nhà văn là một điều đáng trân trọng và khích lệ. Hồ Anh Thái có nhận định trên báo Tuổi trẻ “Nhiều người đọc tâm đắc với mảng truyện này của Lê Minh Khuê đồng thời cũng rất ngạc nhiên. Phương pháp tiếp cận đời sống nào và khả năng xử lý hiện thực nào, khả năng hư cấu nào, trí tưởng tượng nào khiến một người đàn bà thùy mị, bao giờ cũng nghĩ tốt về mọi người lại có thể trở nên sắc sảo và dữ dội đến thế trong văn chương”. Truyện ngắn Lê Minh Khuê đã để lại một dấu ấn khá đậm nét trong lòng độc giả và vị trí của bà trong nền truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam đã đƣợc khẳng định. Trong cuốn Giáo trình văn học Việt Nam sau 1975 Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng biên soạn, không phải ngẫu nhiên mà Lê Minh Khuê đƣợc nhìn nhận, đánh giá bên cạnh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Không những vậy, Lê Minh Khuê cũng là một trong số ít các nhà văn Việt Nam có tác phẩm đƣợc dịch và giới thiệu ở nƣớc ngoài cùng Bảo Ninh, Lê Lựu, Hồ Anh Thái, Nguyễn Khắc Trƣờng, Nguyễn Huy Thiệp. Lê Minh Khuê cũng là nhà văn đạt đƣợc nhiều giải thƣởng văn học - Giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam cho các tập truyện ngắn Một chiều xa thành phố 1987 và Trong làn gió heo may 2000. - Giải thƣởng mang tên nhà văn Byeong – ju Lee của Hàn Quốc năm 2008 cho tập truyện ngắn Những ngôi sao, trái đất, dòng sông Giải thƣởng Byeong – ju Lee đƣợc thành lập từ liên hoan văn học quốc tế Hadong năm 14 2007 và trao giải thƣởng thƣờng niên cho một nhà văn căn cứ vào tác phẩm đề cử bằng tiếng Anh. Thông báo của Hội đồng giải thƣởng ngày 7/3/2008 viết “Là một nhà văn nữ hàng đầu, Lê Minh Khuê ban đầu được biết đến bằng những tác phẩm viết về các cô gái tham chiến trong cuộc chiến tranh giữ nước. Tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh đối với đất nước mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn văn hóa và tinh thần khi đất nước chuyển sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót và trang nghiêm”. Nhƣng trả lời báo chí, Lê Minh Khuê chỉ khiêm nhƣờng nói rằng “Không phải vì tài năng, nhiều người tài năng hơn tôi, xứng đáng hơn tôi… Nhưng có một khía cạnh khiến những người trong hội đồng xét giải, phần lớn là người Hàn Quốc chú ý đến tôi, có lẽ vì tôi hay viết về những vấn đề hậu chiến trong một lãnh thổ từng bị chia cắt như đất nước họ hiện tại… Người Hàn Quốc đồng cảm với chúng ta hơn. Nhờ thế mà tôi được giải thưởng. Cũng không loại trừ có một chiếu cố nào đấy”. Con ngƣời Lê Minh Khuê là vậy, tài năng mà khiêm nhƣờng. Phải chăng vì thế mà văn của bà giản dị mà lấp lánh, sinh động, biến hóa? Điều đó tạo nên một “cốt cách văn chƣơng” rất riêng, không thể lẫn với ai. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê Khái niệm Thế giới nghệ thuật của một nhà văn luôn chứa đựng những quan niệm nhân sinh, xã hội của ngƣời sáng tạo. Một trong những yếu tố cơ bản cấu tạo nên thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con ngƣời của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là khái niệm trung tâm của thi pháp học, phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện bản chất nhân học của văn học. Ở một phƣơng diện nào đó, thuật ngữ này có giá trị tƣơng ứng với khái niệm “tính tƣ tƣởng” trong tác phẩm văn học. Nếu tƣ tƣởng là linh hồn của tác phẩm thì quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là 15 cái giới hạn tối đa trong cách hiểu, cách cảm, cách nhìn và cách lý giải về con ngƣời của nhà văn đƣợc hóa thân thành các nguyên tắc, các phƣơng tiện, biện pháp, hình thức thể hiện con ngƣời trong văn học, tạo nên giá trị thẩm mỹ cho các hình tƣợng nhân vật đó. Quan niệm nghệ thuật là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời gắn liền với vốn sống, vốn văn hóa, tài năng, cá tính sáng tạo của nhà văn và ý thức hệ của cộng đồng xã hội. Nói ngắn gọn thì quan niệm nghệ thuật về con ngƣời chính là cách cắt nghĩa của văn học về con ngƣời thông qua các phƣơng tiện nghệ thuật đặc thù. Mỗi nhà văn đều có quan niệm nghệ thuật riêng và luôn chịu sự chi phối của các quan niệm đó. Tác phẩm văn học luôn tồn tại trong nó quan niệm nghệ thuật nhất định của nhà văn về cuộc đời và con ngƣời. Những nhà văn có quá trình sáng tác lâu dài qua nhiều thời kỳ khác nhau thƣờng có sự biến đổi trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, Lê Minh Khuê là một trong số đó. Quan niệm nghệ thuật của Lê Minh Khuê về hiện thực cuộc sống Trong một lần trả lời phỏng vấn, Lê Minh Khuê tâm sự về nghề văn “Tôi quan niệm viết là một nghề cao quý. Nhưng tôi không cho rằng cái mình viết ra là mẫu mực, là quan trọng, là khởi đầu, là tiền đề khai giải cho một trạng huống nào đó… Trước kia, các nhà văn thường có tham vọng viết cho tương lai, viết dưới ánh sáng vĩnh cửu. Nhưng tôi luôn nghĩ rằng tôi chỉ viết cho hôm nay. Nói cách khác, viết được, đứng vững được vào thời điểm đang sống, đã là may mắn lắm rồi” [68, Đó là quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, luôn bám sát hiện thực của từng “thời điểm đang sống”, bám sát cuộc sống. Nhƣng bà cũng tâm niệm “khi viết thì mình thoát ly hiện thực” và “không lệ thuộc vào hiện thực” [47]. Điều đó có nghĩa là hiện thực trong tác phẩm một mặt lấy chất liệu từ cuộc sống, mặt
các tác phẩm của lê minh khuê